TLYT - Kỷ niệm ngày Đức Phật đản sanh gợi chúng ta nhớ lại khi Đức Phật hiện hữu trên cuộc đời này, đối trước những bất công trong xã hội và sự tranh giành giết hại lẫn nhau giữa các loài hữu tình, Ngài đã luôn ưu tư, tìm cách hóa giải những việc làm gây khổ đau cho con người, cho muôn loài trong thế giới cộng tồn này.
Trên bước đường tìm sự giác ngộ giải thoát cho chính mình và cho tất cả chúng sanh, sau 49 ngày tư duy thiền định dưới cội bồ-đề, Đức Phật đã phát hiện con đường diệt khổ thường được gọi là 37 Trợ đạo phẩm trong Tứ Thánh đế.
Từ đó, với lòng từ bi bao la, Đức Phật đi vào cuộc đời, quan sát cuộc sống và khả năng của người dân để xây dựng một hướng đi thiết thực lợi ích cho mọi người. Trên bước đường khởi đầu truyền bá chân lý, Bát Chánh đạo là đỉnh cao của 37 Trợ đạo phẩm mà Đức Phật đưa ra nhằm giúp cho mọi người phát huy tâm trí sáng suốt và hoàn thiện nhân cách của người đệ tử Phật, cũng như đóng góp tốt đẹp cho cộng đồng xã hội.
Trưởng lão HT.Thích Trí Quảng thực hiện nghi thức Tắm Phật tại Việt Nam Quốc Tự sáng 30-4 (8-4-Canh Tý) - Ảnh: Bảo Toàn Mô hình kiểu mẫu Bát Chánh đạo không phải là một học thuyết lý luận suông; sau khi thành đạo, Đức Phật luôn thể hiện trọn vẹn tinh thần Bát Chánh đạo trong suốt cuộc đời giáo hóa độ sanh của Ngài. Trong 49 năm thuyết pháp, những lời dạy của Đức Phật không phát xuất từ sự không tưởng, hay ảo ảnh như các triết gia đương thời. Những gì Đức Phật giảng dạy cho mọi người đều là thành quả tốt đẹp mà Ngài đã đạt được ngay trong cuộc sống này.
Khi vừa rời Bồ Đề Đạo Tràng, với tri kiến thấy đúng như thật, Đức Phật biết rõ năm anh em Kiều Trần Như chán ngán mọi tranh chấp thời ấy, nên họ sống cuộc đời ẩn dật và thực hiện pháp tu khổ hạnh để mong giải thoát; nhưng họ không được giải thoát, còn tăng thêm sự ràng buộc khổ lụy. Và Đức Thế Tôn đã đến đúng thời điểm, nói đúng pháp mà họ mong chờ. Ngài đã khai tri kiến cho năm người bạn hiền triết của thời đại và họ đã trở thành năm người đệ tử đầu tiên của Ngài trên bước đường lập giáo khai tông.
Vào đời giáo hóa độ sanh, Đức Phật đã từng bước đồng hành với mọi người, khéo léo chuyển hóa những người lầm lỗi trở về cuộc sống chân chánh. Đức Phật cảm hóa mọi người một cách dễ dàng, vì đối trước một người, Ngài biết rõ bản chất của họ, biết rõ việc làm của họ từ nguyên nhân đến kết quả. Điển hình như Ưu Lầu Tần Loa Ca Diếp thả rắn độc để giết Phật, nhưng Ngài vẫn an nhiên tự tại; vì Phật biết rằng lúc khởi đầu ông cũng có tâm niệm đi tìm chân lý, nhưng nửa đường lại bị vướng vào danh lợi của quốc sư một nước lớn, khiến ông trở nên kiêu mạn và làm việc tội lỗi. Đức Phật đã đánh thức hảo tâm cầu đạo ban đầu của ông và tạo điều kiện giúp ông trở về cuộc sống hiền lương chân thật.
Với trí tuệ của Bậc Chánh biến tri, Đức Phật luôn nhận chân được sự thật, luôn suy nghĩ đúng, nói đúng và làm đúng. Vì thế, Ngài thành tựu những việc lợi ích lớn lao, đặc biệt là Ngài đã bác bỏ truyền thống giai cấp cố hữu từ muôn đời của xã hội đương thời. Vâng lời Phật dạy, bảy vương tử dòng họ Thích khi gia nhập giáo đoàn, phải đến đảnh lễ Ưu Ba Ly, trong khi ông này thuộc giai cấp phục dịch cho họ trước kia. Hoặc vua Ba Tư Nặc phải chấp nhận Sunita xuất thân là người cùng đinh, nay có vị trí ngang hàng với những người vốn thuộc giai cấp cao sang trong Tăng chúng.
Việc làm và lời khẳng định của Đức Phật về sự bình đẳng của mọi người trong dòng máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn, đã đáp ứng được nguyện vọng của đại đa số quần chúng thời ấy. Họ đã quá bất mãn trước luật pháp bất công và đã mất niềm tin nơi giai cấp Bà-la-môn không còn tài trí và đạo đức để xây dựng cuộc sống an vui cho người dân. Và Đức Phật là người duy nhất dám nói lên sự thật này và thể hiện sự thật này trong sinh hoạt của giáo đoàn.
Cuộc sống thánh thiện và lợi ích cho xã hội của Đức Phật cùng với cuộc sống mô phạm của Tăng đoàn đã hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu của xã hội đương thời. Vì thế, Đức Phật và Tăng đoàn đã ảnh hưởng rất nhanh vào xã hội khiến cho hàng vua chúa phải kính phục. Đức Phật không từ chối một việc nào có thể mang lợi ích an vui cho cuộc đời. Ngài hướng dẫn từ vua chúa, Bà-la-môn cho đến những người có vị trí thấp nhất trong xã hội, tất cả đều phát huy được hiểu biết, đạo đức trong cuộc sống.
Đức Phật dạy rằng con người bị nghiệp chướng ràng buộc, phiền não bao vây, được gọi là bốn thứ ma, trong đó ma ngũ ấm nguy hiểm nhất, đã tác động làm cho con người mất tự chủ và hành động sai lầm, nên phải trầm luân trong khổ đau sanh tử từ vô lượng kiếp.
Khi thành đạo, Đức Phật tuyên bố rằng Ngài không còn bị lệ thuộc bốn thứ ma này; từ đó Ngài đi vào cuộc đời, chuyển hóa mọi việc trong cuộc sống hoàn toàn tốt đẹp. Trong khi những người đầy tham vọng, thù hận, si mê, bản thân họ còn phạm sai lầm, chắc chắn không thể giải quyết được việc của người khác, mà chỉ gây thêm phiền muộn, khổ đau cho người. Họ tưởng rằng làm cho xã hội tốt đẹp, văn minh; nhưng trái lại, họ làm cho xã hội bị hủy hoại, tồi tệ hơn vì những việc làm của họ phát xuất từ lòng tham lam, từ sự mê muội.
Vì vậy, Đức Phật dạy rằng mỗi người phải tự xây dựng cuộc sống của chính mình trở thành đạo đức, điều chỉnh tâm mình trở thành trong sáng, có trí tuệ thấy suốt ba đời nhân quả, mới có thể chuyển hóa mọi người, cải thiện xã hội cho đến chuyển hóa Pháp giới một cách tốt đẹp thực sự.
Thực tập Bát Chánh đạo giúp hàng đệ tử Phật quay trở về với chính mình, tu tạo thiện nghiệp của thân, khẩu, ý để phát huy giới, định, tuệ. Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng thuộc về giới nhằm thúc liễm lời nói và việc làm, không bị ngoại duyên tác động, không làm những việc sai trái, sống ngay thật, không gian tham, sống cuộc đời có ý nghĩa, lợi mình lợi người và lời nói đúng đắn, chân thật, khiến cho người cảm mến, phát tâm tu theo Phật.
Nhờ hạn chế tham vọng và không tạo tội lỗi, tâm được yên tĩnh, tiến đến giai đoạn định học. Định học (Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định) để tập trung sức mạnh tâm linh, xây dựng và phát huy tánh điềm tĩnh. Tuệ học (Chánh kiến, Chánh tư duy) để suy nghĩ đúng đắn và hiểu biết chính xác, thấy được bản chất của sự vật là cái thấy phù hợp với chân lý.
37 Trợ đạo phẩm theo Phật dạy nhằm tịnh hóa con người là chánh và đạt đến sự hoàn thiện bản thân mình thông qua Bát Chánh đạo, mới xây dựng được mọi người cùng đóng góp cho xã hội văn minh.
Ngày nay, tuy Đức Phật vắng bóng trên cuộc đời, tinh thần Bát Chánh đạo mà Ngài soi sáng vẫn được từng thế hệ nối tiếp phát huy, mang lại nhiều lợi ích đáng kể cho các dân tộc ở những thời đại khác nhau, tạo nên sức sống Phật giáo muôn màu muôn vẻ trên khắp năm châu.
Riêng đạo Phật ở Việt Nam đã tồn tại gần 20 thế kỷ vẫn còn tiềm ẩn một sức sống mãnh liệt trong cuộc sống của người dân Việt. Đó là nhờ truyền thống dấn thân của Phật giáo, làm lợi lạc cho đất nước, cho dân tộc.
Lịch sử Phật giáo Việt Nam còn lưu dấu ấn của nhiều vị thiền sư đã kết hợp khéo léo tinh thần Bát Chánh đạo vào cuộc sống, thành tựu những đóng góp rất quan trọng cho dân tộc. Điểm đặc biệt là các thiền sư Việt Nam đã xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, với những việc làm khác nhau. Khi thì các ngài đóng vai Thái sư Khuông Việt, có lúc làm người chèo đò Đỗ Thuận, hoặc làm người thầy thuốc Tuệ Tĩnh, làm thợ đúc đồng Nguyễn Minh Không… Thậm chí có lúc các ngài tự tại ở ngôi vị đế vương xông pha trước mũi tên lằn đạn để bảo vệ cho muôn dân thoát khỏi ách nạn đô hộ của ngoại xâm.
Các thiền sư Việt Nam dấn thân vào đời, không bị lợi danh quyền thế làm vẩn đục tâm hồn thanh thoát. Đức hạnh của các ngài đã tạo thành những dòng thiền đặc sắc tiêu biểu cho sức sống của đạo Phật Việt Nam gắn bó mật thiết với việc phục vụ dân tộc. Dù ở cương vị nào, các ngài cũng áp dụng tinh thần Bát Chánh đạo vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng tổ quốc.
Sử sách còn lưu danh triều đại nhà Lý thuần từ kéo dài trên 200 năm. Các vua nhà Lý, từ Lý Thái Tổ đến Lý Nhân Tông nổi tiếng là những ông vua đức độ, thương dân, chăm lo cho đời sống nhân dân được ấm no, hạnh phúc. Kế tiếp là triều đại nhà Trần, vua Trần Thái Tông đã nghe lời dạy của Thiền sư Phù Vân sống cuộc đời lấy lòng dân làm lòng mình. Trong suốt 10 năm, ông vừa tổ chức nội trị, vừa chống giặc ngoại xâm, vừa suy tư kinh Phật. Hoặc Đệ nhất Tổ Điều ngự Giác hoàng Trần Nhân Tông tham thiền hành đạo bằng cách cùng với nhân dân xông pha trận mạc. Chính ông đã khai sanh ra tinh thần dân chủ, tôn trọng ý kiến của tập thể trong Hội nghị Bình Than, Diên Hồng.
Ngày nay, tiếp nối tinh thần Bát Chánh đạo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã có những thành tựu nhất định. Thật vậy, đối trước những vấn đề thực tiễn của cuộc sống, Giáo hội đã từng bước hướng dẫn Tăng Ni, Phật tử thực hiện lối sống thích ứng với xu thế đi lên của đất nước. Nhờ đó, sinh hoạt của Phật giáo Việt Nam đi dần vào thế ổn định và trưởng thành lớn mạnh như ngày nay.
Bắt nguồn từ cách nhìn và sự đánh giá đúng đắn (Chánh kiến), Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã vạch ra phương hướng sinh hoạt và phát triển lợi lạc cho Tăng Ni, Phật tử. Cách nhìn đúng đắn ấy được phát xuất từ tư duy luôn hướng về lợi ích cho đất nước, dân tộc và xa hơn, cho an lạc, hòa bình của nhân loại (Chánh tư duy). Vì vậy, những nghị quyết đúng đắn của Giáo hội được Tăng Ni, Phật tử hưởng ứng, chấp nhận (Chánh ngữ), giúp cho hoạt động của Giáo hội Phật giáo Việt Nam ngày càng phát triển vững mạnh.
Những thành quả tốt đẹp trong nhiều lãnh vực mà Tăng Ni và Phật tử Việt Nam đã gặt hái được trải qua hơn 40 năm, góp phần không nhỏ trong việc xây dựng xã hội an vui, đoàn kết, phát triển (Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định). Đây là điều khẳng định sự hiện hữu cần thiết và tốt đẹp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong mạch sống của dân tộc.
Tóm lại, Đức Phật và chư vị Tổ sư đã vận dụng Bát Chánh đạo một cách thiết thực trong việc giáo hóa độ sanh, chuyển hóa mọi người thực hiện nếp sống đạo đức và tri thức, tạo thành một xã hội an lạc, hòa hợp và phát triển.
Ngày nay, đi theo con đường của Đức Phật, dù là dân tộc nào, dù theo tông môn pháp phái nào, thiết nghĩ tất cả chúng ta đều cần thể hiện tinh thần Bát Chánh đạo qua sự nhập thân đa dạng vào cuộc sống.
Cầu nguyện cho Đại lễ Phật đản của chúng ta tỏa sáng năng lượng từ bi và trí tuệ để cùng nhân dân sớm loại trừ được đại dịch Covid-19, trở lại cuộc sống khỏe mạnh, an vui và thành tựu nhiều hoạt động tốt đẹp cho việc xây dựng đất nước hòa hợp, thịnh vượng, phát triển, cùng sánh vai với các quốc gia trên khắp năm châu.