TLYT - Trong thời gian qua có rất nhiều tranh luận liên quan đến đề tài chữ Quốc ngữ và cá nhân linh mục Alexandre de Rhodes được hiểu lầm là người sáng tạo ra chữ Quốc ngữ. Sau đây là một phần bài viết về chữ Quốc ngữ đã được viết cách đây 40 năm (nguyên tác Anh ngữ, bản dịch Việt ngữ có in lại trong Chinh phụ ngâm khảo dịch (Anh Việt) Nxb Hồng Đức 2015). Bài viết ngắn gọn nhằm xác tín lại 3 điểm: (1) Alexandre de Rhodes chỉ là tác giả quyển tự điển Việt Bồ La (Dictionnarium Annamiticum Lusitanum et Latium) chứ không phải là người sáng tạo ra chữ quốc ngữ.(2) Tác giả đầu tiên loại chữ “La tinh Romanji”cho nhu cầu truyền giáo là Yajiro. (3) Nhiều loại chữ Romanhies đã được dùng ở Á Đông chứ không riêng ở Việt Nam. (4) Tuy nhiên chỉ ở Việt Nam là loại chữ Romanji này được thành công mỹ mãn là chữ Quốc ngữ ngày nay là gồm 2 lý do chính, (4.1) Việt Nam là quốc gia Đông Á duy nhất bị người Pháp xâm chiếm,(4.2) Chữ Quốc ngữ chỉ phát triển sau khi đến tay chính người Việt Nam chấp nhận sử dụng làm phương tiện canh tân.
Pháp xâm lăng Việt Nam vào giữa thế kỉ XIX với danh nghĩa “bảo vệ các nhà truyền đạo Thiên Chúa giáo”. Cho nên hầu như lập tức sau khi được thành lập chính quyền thuộc địa, nhà nước Pháp đã có chủ trương dùng chữ Quốc ngữ là ngôn ngữ viết chính thức cho Việt Nam, với mục đích rõ ràng là mở đường cho các nhà truyền giáo Tây phương (John DeFrancis 1977).
Chữ Quốc ngữ có gốc rễ từ thế kỉ XVI, vốn là loại chữ dùng mẫu tự La-tinh (Roman alphabet) để ghi âm các ngôn ngữ Á châu làm phương tiện truyền đạo do các giáo sĩ Công giáo La Ma Jesuit chủ xướng. Dòng Jesuit là dòng truyền đạo Thiên Chúa duy nhất mà các tu sĩ đều có lời nguyền là ra đi thì không trở về, nên họ đều có nỗ lực học tập phong tục và ngôn ngữ người bản xứ, là nơi họ sẽ sống cả đời còn lại. Thứ chữ La Tinh Romanji sớm nhất là loại kí âm này là chữ Nhật La-tinh do Yajiro đặt ra. Yajiro là một tín đồ tân tòng nổi tiếng người Nhật được chính thánh Francois Xavier rửa tội vào năm 1548. Thứ chữ Nhật La-tinh từng được phổ biến rộng rãi trong giới tân tòng của cộng đồng người Nhật ở Faifo (Hội An) vốn là một thương cảng lớn nhất của Việt Nam lúc đó. Sự thành công của chữ Nhật La-tinh đã là một động cơ khiến các nhà truyền giáo tạo ra nhiều thứ “Romanjies” khác dùng làm phương tiện truyền đạo đến các cộng đồng người Á Châu. Tuy nhiên Việt Nam là quốc gia duy nhất sớm bị xâm lăng (dòng Jesuit cũng bị Giáo hoàng giải thể năm 1773 và các linh mục Vincentian được lệnh thay chỗ). Chữ Việt La-tinh một mình sống sót và trở nên Quốc ngữ cho Việt Nam, trong khi các nhóm “Romanjies” khác chết hết. Năm 1651 linh mục Alexder de Rhodes lãnh đạo cộng đồng truyền giáo Jesuit Pháp ở Việt Nam cho in quyển tự điển Việt Bồ La (Dictionnarium Annamiticum Lusitanum et Latium) đánh dấu sự có mặt chính thức của chữ Quốc ngữ. Thực ra chữ Quốc ngữ là một sản phẩm tập thể củ nhiều người đi trước mà de Rhodes chỉ là người thừa kế và tổng kết thành quyển tự điển trên.
Với ý đồ cai trị Việt Nam lâu dài và cải đạo cho tất cả người Việt Nam, chính quyền thuộc địa Pháp và các nhà truyền giáo muốn tẩy bỏ truyền thống văn hóa Việt Nam bằng vũ khí ngôn ngữ là loại chữ “Quốc ngữ” mới này. Họ tin một khi Quốc ngữ viết chính thức và duy nhất, người Việt Nam sẽ quên đi chữ Hán và chữ Nôm. Và như thế chỉ trong một thế hệ, người Việt Nam sẽ tự động bị cắt rời ra khỏi truyền thống văn hóa của họ, một truyền thống vốn gắn bó với ngôn ngữ chữ viết trên cơ sở Hán văn và chữ Nôm.
Vì vậy ngay từ ngày đầu tiên, chính quyền thuộc địa đã ra sức phát động mọi biện pháp mua chuộc lẫn cưỡng chế việc học thứ chữ mới mẻ này. Nhưng lúc đầu, mọi biện pháp kế hoạch của người Pháp đều không mang lại một kết quả lớn lao nào. Khi đó người Việt Nam cho rằng loại chữ này chỉ là phương tiện truyền giáo của đạo Thiên Chúa và loại người đi học thứ chữ mới này chỉ có một ý đồ cuối cùng là phục vụ cho chính quyền xâm lăng. Phản ứng của người dân còn ghi một các ý nhị trong ca dao, trong câu hò câu hát… Chàng về học lấy chữ nhu, chín trăng em đợi mười thu em chờ… (chữ Nhu ở đây ý chỉ chữ Nho, hay cựu học). Ngay trong giới công tác làm việc cho Pháp với nhiều lí do khác để không cho con cái đi học. Nhà văn Hồ Hữu Tường, một học giả của miền Nam, còn cho biết ông vốn là con nhà nghèo (Thằng Thuộc Con Nhà Nông) được đi học là do đi học thuê, học giùm thay chỗ cho một đứa con nhỏ con một phú hộ làm việc cho người Pháp.
Việc học Quốc ngữ và phong trào học Quốc ngữ chỉ thành công khi do chính người Việt Nam yêu nước chủ động phong trào này. Trước hết là triều đình nhà Nguyễn theo lệnh Pháp chấm dứt cuộc thi bằng chữ Hán vào năm 1918, đã là trang sử cuối cùng của các nỗ lực học tập chữ Hán để làm quan hay để kiếm cái việc bằng “nghề” dùng chữ Hán. Thứ hai, quan trọng hơn nữa, là những cố gắng chống Pháp giành độc lập bằng vũ lực thất bại, nhiều nhà lãnh đạo đã nghĩ đến công cuộc giành độc lập trường kì hơn cùng lúc mở mang dân trí dân sinh bằng cách sử dụng chữ Quốc ngữ.
Từ thế kỉ thứ XX, sách báo của các nhà tư tưởng mới như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu từ Trung Hoa đã tràn đến. Các tác phẩm của các nhà tư tưởng Tây phương tiến bộ như Montesquieu, Voltaire, J.J. Rousseau cũng được dịch ra chữ Hán. Rồi tin tức về chiến tranh thế giới, nhất là các cuộc chiến thắng của quốc gia da vàng Nhật Bản trước đế quốc da trắng Nga hoàng 1905 đã là một kích động lớn cho mọi người Việt Nam. Những nhà Nho yêu nước như là Phan Châu Trinh và nhiều người khác nhìn thấy con đường cứu nước qua công cuộc canh tân đất nước. Hướng ngoại thì có các chương trình gửi người đi học nước ngoài, đặc biệt là đi Nhật, ở trong thì như mở trường “Đông Kinh Nghĩa Thục” ở Hà Nội (Đông Kinh vừa có nghĩa là Hà Nội vừa có nghĩa là Tokyo) quyết định dùng Quốc ngữ làm vũ khí để giáo dục quần chúng, truyền bá tinh thần khoa học canh tân và lí tưởng chính trị yêu nước. Tất cả những mục tiêu đó được chuyển đến mọi người dân chỉ qua 28 chữ cái của chữ Quốc ngữ.
Lẽ dĩ nhiên phong trào phải bị thực dân Pháp đàn áp. Trường Đông Kinh Nghĩa Thục bị đóng cửa, các nhà lãnh đạo đều bị bỏ tù vì bị coi làm cách mạng chống Pháp. Nhưng phong trào phổ biến Quốc ngữ thì sống sót, vì phù hợp với ý đồ của thực dân và giáo hội Thiên Chúa giáo của người Pháp. Hội truyền bá Quốc ngữ gồm những nhà tri thức yêu nước và cả những người công tác với Pháp được thành lập với sự ưng thuận của nhà cầm quyền thực dân. Hàng ngàn người tình nguyện được đưa về các làng xã dạy Quốc ngữ. Họ tình nguyện làm điều này vì tinh thần yêu nước, biểu lộ lòng yêu nước, góp phần vào công cuộc canh tân đất nước bằng con đường duy nhất ở thời đó mà không bị thực dân truy nã tù tội.
Khi Việt Nam thắng Pháp năm 1954 chấm dứt thời lệ thuộc Pháp thì Quốc ngữ đã quá phổ biến. Hàng triệu người dân lần thứ nhất trong lịch sử Việt Nam đã biết đọc và biết viết. Không những thế, chữ Quốc ngữ đã phát triển thành một ngôn ngữ khoa học, có khả năng bày tỏ tâm tình của con người Việt Nam và chuyên chở được văn minh khoa học thế giới. Người Việt Nam nhanh chóng thành tựu được một nền văn hóa sâu sắc và đồ sộ về mọi lĩnh vực trên cơ sở văn tự Quốc ngữ. Chữ Quốc ngữ đã đứng ngang tầm với các ngôn ngữ lớn của nhân loại. Chữ Quốc ngữ đã trở nên là một biểu hiệu của Việt Nam mới, độc lập và phát triển. Chữ Quốc ngữ xứng đáng với cái tên “Quốc ngữ”, ngôn ngữ của một quốc gia văn hiến có bản sắc riêng biệt.
Tuy nhiên chúng ta phải hiểu sự thành công mau chóng và tốt đẹp của chữ Quốc ngữ là nó cũng như chữ Nôm. Tất cả các tác phẩm chữ Nôm đều đã dần dần được in lại bằng chữ Quốc ngữ. Chỗ độc đáo của chữ Quốc ngữ là chỉ cần bảng mẫu tự La–tinh (Roman alphabet) 26 chữ cái là người ta có thể kí âm tiếng Việt rất chính xác. Vì vậy việc viết và đọc tiếng Việt trở nên dễ dàng. Rất ít có dân tộc nào trên thế giới mà có ngôn ngữ như tiếng Việt Nam; nơi người dân có thể học từ tiểu học đến đại học mà rất ít người cần dùng đến từ điển tiếng Việt (việc dùng tự điển song ngữ để học ngoại ngữ là việc khác). Phải dùng thí dụ này để thấy rõ việc phân biệt cái vỏ ngôn ngữ (chữ viết) với nội dung ngôn ngữ: Ngày nay người ta đã “La-tinh hóa” (Romanize) nhiều ngôn ngữ trên thế giới, có nghĩa là dùng mẫu tự La-tinh để kí âm hàng ngàn thứ tiếng nói của nhiều tộc người. Những việc kí âm này còn chính xác hơn ở tiếng Quốc ngữ vì chúng đều do các chuyên viên ngữ học đảm nhiệm chứ không còn như thời trước. Trong thời tạo chữ Quốc ngữ trước kia, ít người là chuyên gia ngôn ngữ học mà nhóm người Việt cộng tác thì không có văn hóa cao. Nhưng so với hàng trăm các thứ chữ tân tạo sau này, dù chuẩn xác hơn và khoa học hơn nhưng có mấy loại ngôn ngữ La-tinh hóa nào có một nội dung phong phú như chữ Quốc ngữ? Vì vậy phải hiểu chữ Quốc ngữ thành công vì nhờ có chữ Nôm.
Chinh phụ ngâm viết bằng chữ Nôm và Quốc ngữ:
喃 (Nôm):
課𡗶坦浮干𩙍𡏧.
Quốc ngữ:
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi.
Với sự phổ biến và thành quả của chữ Quốc ngữ, đương nhiên không có ai ảo tưởng thay thế nó. Tuy nhiên, người Việt Nam phải trả giá cho thành quả này. Ngày nay với thực tế là 99 phần trăm người Việt không biết gì về chữ Hán và chữ Nôm. Việc dốt tiếng Việt của thế hệ sinh viên học sinh ngày nay mà dư luận thường liên tục lên tiếng phê phán chỉ là cái biểu chứng bên ngoài. Nội chứng của bệnh bên trong là sự xa lạ và thờ ơ với truyền thống văn hóa mà thế hệ trước còn có là do sự liên kết với chữ Hán và chữ Nôm.
Cũng không ai có ảo tưởng chúng ta sẽ học lại chữ Hán chữ Nôm như các thế kỉ trước, trừ nhu cầu cho vài người nghiên cứu chuyên môn, nhưng việc học sinh trung học (lớp 6,7,8,9) học thêm vài giờ chữ Hán một tuần1 (và sau đó sẽ điểm qua học chữ Nôm) như chương trình trước kia, sẽ là một giải pháp hữu hiệu nhất. Giống như học sinh Nhật phải học chữ Kanji, học sinh chúng ta không cần phải đọc chữ hán chữ Nôm để đọc được sách cổ hay sách báo chữ Hoa hiện đại, nhưng sẽ hiểu rõ tiếng Việt và sử dụng tiếng Việt sâu sắc hơn. Và do kiến thức đó còn một liên hệ hữu cơ với truyền thống văn hóa và đạo đức tâm linh của dân tộc. Những hiện tượng lạc lõng, tha hóa và trống của xã hội ngày nay phải được nhìn từ nền tảng này. Thật sự là rất khó thể có một xã hội có thể sống thanh bình an hòa và cân bằng giữa xu hướng phát triển và tâm hồn trong lành tịch tĩnh nếu không có một truyền thống văn hóa sâu sắc làm điểm tựa.
Vũ Thế Ngọc
Chú thích:
1. Chú ý “học chữ Hán” có nghĩa là học tiếng Hán Việt, chứ không có nghĩa là học chữ Hoa (sinh ngữ, như một viên chức Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đề nghị). Như đã viết nhiều lần, việc học chữ Hán để tránh sự “nhập Hoa” và làm trong sáng việc học chữ Việt, thí dụ biết Minh (明) có nghĩa là “sáng” trong “minh bạch, bình minh”, Minh (冥) có nghĩa là tối như trong “u minh”, Minh (盟) có nghĩa là “thề” như trong “Minh ước Bắc Đại Tây Dương”; Long (龍) là “rồng” như “Thăng Long”, Long (隆) có nghĩa là “dày, thịnh, bền vững” như “Vĩnh Long, Long An”, “yếu điểm” có nghĩ là “điểm quan trọng” viết theo văn pháp Hán-Việt, “điểm yếu” có nghĩa là “điểm yếu kém” viết theo văn pháp thuần Việt v.v.
Tài liệu tham khảo :
Chu F.C 1982 漢序?古? 位. Hong Kong: Chinese Uniersity Press.
DeFrancis, John.1977. Colonialism and the Language Policy in Vietnam. The Hague.
Dao Duy Anh.1975. Chữ Nôm, Hanoi: KHXH.
Huard and Duand. 1954. Connaissance du Vietnam. Hanoi: EFEO.
Karlgren. [1919] Etudes sur la phonologic Chinosie.
Karlgren. 1974. Anlytic Dictionary of Chinese and Sino-Japanese. New York: Dover.
Masperror, H. 1916. “Etudes d’ histoire d’Annaam”, BEFEO.16:1-55.
Masperror, H. 1918. “Etudes d’ histoire d’Annaam”, BEFEO.18:1-36.
Nguyen , H. Le.1973. Đông Kinh Nghĩa Thục, Saigon.
Norman J.and Mei T.1978. “The Austroasiantics in Ancient South China: Some Lexical Evidence, “Monumenta Senica 332: 274-301.
Shorto, H.L.1979. “The Linguistic Protohistory of Main Land Southeast Asia”, in Early Southeast Asia: Essays in Archeology, History and Historical Geography, ed. By R.B.Smith and W.Watson. New York: pp 273- 278.
Stimson H. 1976. T’ang Poetic Vocabulary. New Haven: YUP.